Thông tin Mỹ thuật số 15-16

Trường Đại Học Mỹ Thuật Thành phố Hồ Chí Minh...

Con Nghê một biểu tượng tạo hình thuần Việt

Con nghê - đồ án trang trí đặc sắc bắt đầu có ở nước ta từ bao giờ trong các chốn uy nghiêm như lăng tẩm, cung điện, đền, khán thờ, tấm chạm, cột, đầu đao đình làng và gắn liền trên các đồ vật như: hoành phi câu đối, đỉnh hương, chân đèn, dấu, ấn, triện, nắp chóe, vật bày thờ, nóc bình vôi hay thậm chí cả trên cái chặn giấy...? phải chăng các nghệ nhân muốn tạo nên con Nghê như một biểu tượng thuần việt?.

Con Nghê Con Nghê Con nghê
Ngê đồng, thế kỷ I-III Đỉnh gốm men rạn có nắp thời Lê, tháng 4 niên hiệu Vịnh Hựu 2 (1736) Tượng nghê gỗ chạm, triều Nguyễn thế kỷ XIX

Nghê - con vật biểu trưng mang yếu tố huyền thoại, dũng mãnh, thiên biến vạn hóa,  tượng trưng cho trí tuệ, là biến thể từ sư tử và chó dữ, có sức mạnh như chúa tể muôn loài. (Khi nghê hóa rồng biểu tượng cao cho quyền lực chính trực; khi nghê có mình chó thể hiện lòng trung thành; khi nghê có đuôi vút cao liên tưởng đến ngọc như ý; khi nghê đội giá sớ hay bài vị, thường toát ra vẻ cam chịu; khi nghê ngậm ngọc biểu tượng độc đáo của sự khôn ngoan (suy nghĩ, uốn lưỡi và lựa lời trước khi  nói); khi nghê đứng chầu hai bên khán thờ vẻ uy nghiêm; khi nghê đeo lục lạc hay rỡn hí cầu… thể hiện sự tinh nghịch,vui tươi; khi nghê có lông hình xoắn ốc  như trên đầu tượng phật mà người ta gọi là Phật ốc, Bụt ốc thể hiện sức mạnh toàn năng, phi phàm). Bằng  nghệ thuật tạo dáng và kỹ thuật chạm khắc tinh tế, người nghệ nhân đã thể hiện những cảm thức sáng tạo và khiếu thẩm mỹ đặc sắc, nhất là khi nền văn hóa thuần Việt phục hồi sau hàng ngàn năm Bắc thuộc.
Ngay từ thế kỷ (TK) I đến TK III, ở ta đã có tượng nghê đồng (hình 1). Đời Lý đã có tượng nghê ở hai nậm rượu. Từ TK XIII - XIV tới thời Chu Đậu (TK XVI - XVII) Nghê có trong bát hương và các bình trầm hương (Hình 2). Với nhiều  loại chất liệu khác nhau, nghê được tạo từ đồng, gỗ chạm đến gốm tráng men các màu (hình 3). Ngoài ra còn có nghê đá đứng chầu hai bên cùng hai cây hương tại đền lăng của đại quan Vũ Vĩnh Tiến thời hậu Lê, xây năm 1660, tại Phù Mỹ - Đô Lương - Ân Thi (Hải Hưng). Các triều đại phong kiến Việt Nam trải qua bao biến động thăng trầm từ nhà Lý (TK XI) cho đến cuối đời Tây Sơn (TK XVIII), mà sự phát triển của kiến trúc đình, chùa, sự giàu có của giới quý tộc, trưởng giả càng đòi hỏi ngày một nhiều những phẩm vật tế tự, sinh hoạt và trưng bày, gắn với  thời thịnh đạt nhất của con nghê. Thời Pháp thuộc, nhiều học giả Pháp đã chú ý đến con nghê qua những hình vẽ bằng bút sắt khá thú vị (Hình 4).

Con Nghê Con Nghê Con Nghê
Hình Lân chạm đá chùa Linh Quang, Hải Phòng, 1794 Tượng sư tử, đồng, triều Nguyễn, TK XIX Nghê men nhiều màu, triều Mạc - Lê Trung Hưng, TK XVI-XII

Nhiều người dễ bị nhầm lẫn giữa con nghê với con lân – một trong “Tứ linh”. Nếu không để ý kỹ cũng khó phân biệt giữa nghê - con vật được biến tấu từ sư tử và cả chó cộng thêm sự sáng tạo của nghệ nhân. So sánh lân (Hình 5) với nghê, có thể suy luận nghê là linh vật đặc biệt của văn hóa Việt Nam, còn lân thuộc văn hoá Trung Hoa. Lân giống sư tử nhiều hơn, có sừng, thân hình tròn mập, đuôi ngắn, miệng ngậm ngọc hay ngồi chống chân lên quả cầu (Hình 6). Con nghê có kỳ mà không có sừng, dáng thanh, mình thon nhỏ, trông giống như dáng chó đuôi dài.Việc phân biệt này đôi khi cũng gây ra tranh cãi. Một số bình hương, chân đèn gốm Việt Nam thời Chu Đậu, cũng có hình lân, nhìn vào thấy rõ lân chứ không phải nghê. Tuy nhiên ngay cả “Vietnamese ceramics a separate tradition” của John Guy và Jonh Stevensen cũng đôi khi mắc lỗi ghi chú nhầm con nghê vào một số hình con lân bên nhiều bình hương trầm cần minh họa.
Người Việt nuôi trâu cày, nuôi chó giữ nhà và coi chúng thật gần gũi. Trong đời sống tinh thần, tổ tiên ta cần có linh vật để xua đuổi tà ma, ác quỷ và canh giữ cho gia chủ. Vì thế mà chó đá được dựng lên trước mỗi cổng làng, cổng đình, cổng nhà, ngoài đầu hồi… tại nhiều làng quê miền Bắc nước ta. Để bày trước điện thờ của các nhà giàu có, hay các đền thờ, đình, miếu… chó đá hóa linh, được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ (Hình  7), mà dần thành con nghê?
Mô típ trang trí được đồng bào dân tộc Dao Tiền phía Bắc nước ta rất ưa sử dụng là hình hai con chó “Tua chồ” chụm đầu lại. Người Dao Tiền xem như bùa hộ mệnh, vật linh thiêng bảo vệ cho chủ sở hữu tránh được thú dữ, thiên tai. Vậy chó “Tua chồ”  được dệt trên vải thổ cẩm ở đuôi thắt lưng người Dao Tiền, với lối tạo hình cách điệu, phải chăng chính là hình tượng con Nghê?
Nghê có mặt trong nhà, từ dân dã đến trưởng giả, hay cung điện, đình, đền, chùa, lăng, miếu. Suốt nhiều thế kỷ, trên các bình hương, nậm rượu, không thể thiếu nghê ở những nơi tế tự. Sau khi thống nhất sơn hà, nhà Nguyễn - có lẽ do mặc cảm và thù ghét các dấu vết văn hóa thời Trịnh và Tây Sơn, nên đã ưa chuộng văn hóa Trung Quốc  hơn. Có lẽ thế mà cùng với việc con rồng Việt uyển chuyển thời Lý, Trần, Lê được thay bằng con rồng Trung Hoa thân mập, vảy to, mặt ngắn; đồ gốm Tàu thay thế sản phẩm của những làng nghề truyền thống và dĩ nhiên con nghê ít được dùng, bị lai dần theo cách tạo hình con lân của Trung Hoa (Hình 8). 
Nhà sưu tập Nguyễn Thị Tú Anh ở Tp. Hồ Chí Minh hiện sở hữu bộ sưu tập nghê gỗ hơn năm mươi con, có niên đại từ thời Lê tới  đầu Nguyễn. Xin chọn 3 con nghê của bà để giới thiệu và so sánh:

Con Nghê Con Nghê Con Nghê
Nghê, gỗ, thời Nguyễn, đầu thế kỷ XIX Nghê, gỗ, thời Lê, TK XIV-XVII Nghê, gỗ chạm, sơn thếp vàng của người Hoa vùng Nam Bộ, TK XVIII

1. Tượng nghê, (gỗ chạm  thời Lê - Bắc Bộ), ngồi trên bệ chống hai chân trước, dáng thu mình vươn cao, tư thế ngẩng đầu, cổ vươn, mặt hướng lên phía trên, mắt lồi, mũi nở, miệng rộng ngậm, tai có hình như tai voi nhỏ, có năm vòng râu xoăn nổi, bờm tóc kết thành bốn sóng to, đăng đối hai bên, ức nở, đầu, thân và đùi có chạm nổi vảy rồng, lưng khum có hình mây lửa, đao, mác, nhìn nghiêng chân và đùi là những tua hình mác uốn cong như sóng lượn, bàn chân có móng vuốt, đuôi vắt từ trái sang phải.
2. Tượng nghê, gỗ chạm thời Nguyễn, quỳ hai chân trước trên bệ, dáng vừa  như rình mồi với tư thế như chuẩn bị phóng vút đi. Lông mày xoáy trôn ốc. Mắt lồi, mở to có lòng trắng và con ngươi, miệng ngậm nhưng vẫn chìa hai nanh dữ tợn, ria mép xoắn ốc, hai râu xoáy ốc dưới cằm như sư tử, mũi nở nhưng tẹt, hai tai vểnh. Đùi nổi rõ khối bắp thịt cuồn cuộn, cơ lưng gồng lên. Mông nở to, bờm và đuôi xoè hình lửa có xoắn ốc nổi rõ như xoắn ốc trên đầu tượng phật. Hai ngọn mây lửa ở cẳng chân sau. Bốn bàn chân xòe rộng, mỗi chân đều có bốn có móng vuốt như móng sư tử. Lớp sơn son thếp vàng được tô ở bên ngoài không đơn thuần chỉ là sơn để phủ mà còn góp phần tăng hiệu quả tả thực, phù hợp với mục đích thờ cúng. Ngoài việc tiếp thu những mô típ hình lửa, đao, mác như thời Lê, trong nghệ thuật tạc gỗ kết hợp với chạm khắc, nghệ nhân thời Nguyễn  còn  đi sâu vờn tròn các khối tượng cũng như các chi tiết trang trí, tả thực cơ bắp đùi, mông, lưng, móng vuốt, lông mày của con nghê.
3. Tượng nghê, gỗ, chạm của Người Hoa ở Nam Bộ, chạm khắc đơn giản, sơn đen phủ tượng, sau đó phủ ra ngoài lớp thếp vàng óng ánh. Nghê ngồi trên bệ, hai chân sau thu lại, đứng thẳng hai chân trước vòng cuốn cổ đeo ba lục lạc, cổ vươn cao, ngẩng đầu có ba sừng, miệng ngậm ngọc, bờm và lông trên sống lưng dựng đứng như một hàng kỳ có nhiều tua tia lửa chạy suốt từ đỉnh đầu đến sống đuôi. Ngoài ra còn có dải chấm tròn nổi khối (đăng đối hai bên dưới mép hàng kỳ tiếp xúc với gáy nghê nổi khối trên lưng nghê). Ở nách có ba tia đao mác, giữa cẳng chân có ba u tròn và ba tia đao mác chạm nổi đăng đối hai bên. Bàn chân trước có ba ngón không chạm rõ vuốt, phía sau chân trước có ba u tròn nổi rõ. Cùng chất liệu gỗ, chạm, cùng miêu tả nghê, nhưng với 3 thời kỳ khác nhau, ta có ba con Nghê với những giá trị lịch sử, văn hóa, mỹ thuật  khác nhau.
Con nghê thời Lê, niên đại sớm hơn (khoảng TK XVI - XVII) với cách tạo dáng vững chãi, nửa như đứng chầu, nửa như muốn bay lên trong khoảnh khắc muốn hóa rồng. Những mảng khối âm, dương hoà quyện khá tinh tế tạo nên một dáng vẻ tự tin. Nghệ thuật tạo hình phối hợp yếu tố chạm khắc trang trí vừa đơn giản, vừa cách điệu đã tạo nên những chi tiết vừa khỏe khoắn, khúc chiết, vừa mềm mại, thanh thoát, mang tính trang trí cao. Mây hình ngọn lửa, đã trở  thành như một dấu hiệu, như một chữ ký của những tác phẩm trang trí  thời Lê. Những vẩy rồng trên đầu và thân tạo cho nghê thêm linh thiêng.
Con nghê thời Nguyễn, niên đại muộn hơn (khoảng đầu TK XIX), kích thước nhỏ hơn, hình khối căng tròn đầy và có xu hướng tả thực ở lưng, chân, đùi. Những râu, ria, bờm, tóc và đuôi được diễn tả bằng những đường nét trang trí khá trau chuốt, tỉ mỉ thậm chí đến mức cầu kỳ. Dáng nghê nhìn từ đằng sau có phần thô và nặng nề, với cái đuôi xòe tròn, xoắn ốc, hai chân thô và ngắn có đôi tai vểnh như tai miêu… hao hao như  những hình mẫu kiểu con lân của Trung Quốc.
Con nghê do người Hoa ở Nam bộ làm (khoảng TK XVIII) các chi tiết chạm không rườm rà, ngược lại được diễn tả mượt mà, đơn giản, có nhiều khối hình như được chuốt tới mức nhẵn phồng, căng bóng. Đặc điểm và nét dáng con nghê này gần giống với chó có đầu hơi to trong đời sống thực. Nơi sông nước, kênh rạch, trong suốt quá trình khẩn hoang, con chó luôn gần gũi, gắn bó với con người Nam Bộ nói chung và người Hoa nói riêng. Dần theo năm tháng, được biến thể thành con nghê. Nhờ sự gắn bó lâu đời nên thẩm mỹ  tạo hình của người Hoa ở Nam Bộ cũng “Việt hóa”, đơn giản, chân phương, phóng khoáng, không cầu kỳ làm điệu. Do đó, con nghê có vẻ đẹp riêng, mà không bị  ảnh hưởng, sao chép những công thức tạo hình bóng bảy, cầu kỳ như tổ tiên họ ở Trung Quốc  vẫn hay làm.

Đ.L.H.T

Các bài viết khác trong Thông tin Mỹ thuật số 15-16