Thông tin Mỹ thuật số 17-18

Trường Đại Học Mỹ Thuật Thành phố Hồ Chí Minh...

Nghề In Và Đồ Họa Sách Thời Nguyễn

Khi tìm hiểu về nghề in sách ở Việt Nam thời xưa không thể không nhắc đến Lương Như Hộc và nghề làm giấy của ta.
Phần Chư Công nghệ Tổ sư sách Liệt Tiên truyện có chép, Hộc người Hồng Lục huyện Trường Tân lộ Hải Dương, đỗ Thám hoa khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), quan đến chức Đô ngự sử, từng hai lần sang sứ Trung Quốc và học được cách chế bản in. Đi sứ về, Hộc dạy cho dân Hồng Lục và Liễu Tràng (Hồng Liễu), vì thế dân có nghề này. Sau Hộc mất, dân lập đền thờ tôn làm Tổ sư, Triều đình cũng có sắc chỉ phong cho làm Phúc thần.
Điều này không có nghĩa là trước đó tại Việt Nam không có nghề khắc in mộc bản. Nhưng trên thực tế mà nói, sự hoạch định thành phường hội, làng nghề phải nói có từ sau khi Hộc đi sứ về.

Phổ môn xuất tướng đồ. Kinh in năm Thành Thái 8 (1896). Kinh xếp, 30cmx12cm, 112tr, 42 đồ hình theo dạng nhất thư nhất họa liên hoàn

Có thuyết cho rằng suốt từ thế kỷ I đến thế kỷ III, đất Luy Lâu đã là một trung tâm Phật giáo và đã từng cho khắc in kinh Phật. Xem Lý Hoặc luận của Mâu Bác, hay qua chùm thư tranh luận giữa bọn Đạo Cao, Pháp Minh, Lý Miễu cũng đủ biết Phật giáo ở ta thời Bắc thuộc như thế nào. Còn ăn cứ vào ngôn từ trong lá thư của Đàm Thiên gửi Tùy Văn Đế nói về việc in khắc các bộ kinh ở Giao Châu cơ hồ ít chứng liệu để chúng ta có một ý niệm tự hào về lịch sử ngành in nước nhà. Vì thế, để kết luận và khẳng định một cách khoa học lại là điều phải dè dặt rất nhiều. Bởi Trung Quốc vào đầu thế kỷ II Sai Luân mới cải tiến phương pháp làm giấy, mãi đến trước sau thế kỷ VIII họ mới phát minh ra công nghệ in ván khắc. Vì thế thuyết nói trên là không thực, công nghệ khắc in sách ở ta qua các bộ sử lớn đều có đề cập đến, nhất là vào thời Lý- Trần, khi mà Phật giáo đang được sủng ái nơi chốn triều trung đã lợi dụng cho san khắc nhiều lần bộ Đại Tạng kinh thỉnh từ Trung Quốc về phổ biến cho các tự viện trong nước. Nhưng tất cả những gì chúng ta có được vào giai đoạn này đều bị Minh Thành Tổ ra sắc lệnh hủy diệt, nhất là khi Trương Phụ sang nước ta lần hai.

In ấn thời Nguyễn
Quan đế bảo huấn tượng chú. Bản khắc lại năm Tự Đức Quý Dậu (1873) tại chùa Liên Phái (Hà Nội), theo bản in năm Đạo Quang 2 (1822)

Suốt một thời kỳ từ lúc Nguyễn Trãi đọc Cáo Bình Ngô cho đến khi Nguyễn Ánh ngồi rũ áo trên ngôi với bao nhiêu biến cố thăng trầm, vì nhiều lý so khiến cho sách vở của nước ta mất mát nhiều. Theo bước thống kê ban đầu thì 70% số sách còn lại thuộc di sản Hán Nôm là sách chép tay, số sách còn lại là sách in có niên đại sớm nhất vào thời Lê trung hưng trở lại (trong đó số sách in vào thời Nguyễn chiếm đa phần).
40 năm đầu của Gia Long và Minh Mạng là thời kỳ vàng son trong sự trì trệ chung của thế cuộc nhà Nguyễn, cho dù có những thành công ghi nhận về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa,… Nhưng do bản chất lạc hậu, nền tảng tư tưởng chậm so với lịch sử cho nên Nho giáo chỉ còn là những công thức ràng buộc, Phật giáo ở làng với hệ Tam giáo đồng đường cũng đã nhạt nhẽo đi không còn là chỗ dựa tinh thần thực sự của trí thức và dân lao động. Nếu như công nghệ xuất bản sách ở Trung Quốc hưng thịnh nhất vào thời Tống- Minh thì ở Việt Nam đỉnh cao đó lại được đúc kết ở vương triều phong kiến cuối cùng này. Theo thống kê của Mai Hồng và Nguyễn Hữu Mùi thì ở ta có tới 318 “nhà in”, đại bộ phận mang niên đại Nguyễn. Có một số sách gắn với một vài cơ sở in có tiếng và tuổi thọ khá lâu như phường in Hồng Liễu 211 tuổi (1683-1904), Đa Bảo tự 216 tuổi (1665-1881), Vĩnh Khánh tự 157 tuổi (1750-1907), Đoan Nghiêm tự 140 tuổi (1763-1903), Quốc Tử Giám 89 tuổi (1820-1909), Liễu Văn đường 91 tuổi (1834-1925),… Gắn với một số nhân vật khởi xướng phục hưng công nghệ in khắc trong giai đoạn này như hòa thượng Phúc Đường (chùa Liên Phái), Trần Công Hiến (Hải Học đường), Kiều Oanh (Ánh Hiên hiệu), tổng tài Trương Đăng Quế, Cao Xuân Dục,… Chưa bao giờ nghề in phát triển nở rộ như giai đoạn này. Xét về tính chất học thuật cùng nội dung các sách được in liên quan tới nhiều vấn đề, từ tôn giáo, chính trị, xã hội, văn, sử cho đến pháp chế, nghệ thuật,… Sách in ra được chia theo Tạng (Phật giáo) hoặc theo các bộ Kinh, sử, tử, tập, cử nghệ (Nho giáo) lưu trữ trong các thư viện lớn thời Nguyễn như Thư viện Tụ Khuê (1820-1840), thư viện Quốc Sử quán (1841), thư viện gia đình Lê Nguyên Trung (1846), thư viện Nội các, thư viện Học viện Viễn đông Bác cổ (Ecole Francaise d’ Extrême-Orient),… chưa kể đến những thư viện và những nơi làng bản thuộc các tổ đình lớn như chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), Bổ Đà (Bắc Ninh), Vĩnh Khánh (Hải Dương), Bích Động (Ninh Bình), chùa Liên Phái, Bà Đá, Hoằng Ân (Hà Nội),...
Tóm lược lại, ta có thể phân hoạch các đầu sách được in thuộc 3 khu vực: 1. Do triều đình phong kiến tổ chức và quản lý; 2. Do đình, chùa, quán, miếu tiến hành; 3. Do các phường hội, tổ chức tư nhân đảm nhiệm.

Sự ưu việt về tài chính giúp cho các cơ sở do nhà nước quản lý tiến hành in các bộ sách đồ sộ và có giá trị, điển hình như các bộ Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám, cương mục, hay các bộ Đại Nam liệt truyện, Đăng khoa lục,… cùng một số sách khác đều do Quốc Sử quán đảm nhận in khắc.
Khác với những sách do triều đình phong kiến ấn hành, kinh sách thuộc phạm vi nhà chùa, từ, quán đảm nhận thì tính chất học thuật phần lớn liên quan tới tôn giáo, điều này không có nghĩa là Đạo giáo và Phật giáo không khắc các đầu sách liên đới. Điển hình như bộ Hải thượng Y tông tâm lĩnh của Lê Hữu Trác được khắc in ngay tại chùa Đồng Nhân (Bắc Ninh), ván in phần lớn các bộ kinh lớn hiện được tàng bản ở các chùa Vĩnh Khánh, Bổ Đà, Dư Hàng, Bà Đá, Liên Phái, Bích Động,… có nơi chỉ in một hai đầu sách nhưng có những nơi như đền Ngọc Sơn có cả một quyển thư mục sách do bản đều in ra, đủ minh chứng khối lượng sách Tôn giáo được in ra vào giai đoạn này nhiều như thế nào!

In ấn thời Nguyễn
Tây Phương công cứ. Chùa Bồ Đà (Tứ Ân tự, Việt Yên, Bắc Giang) tổ chức in khắc kinh vào cuối TK 18. Bản in lại năm 1995.

Khi nói đến phần sách thuộc khu vực tư nhân tổ chức không thể không nói đến hai phường in Hồng- Liễu (Hải Hưng), sự kỳ cựu về tay nghề khiến họ có tên ở hầu hết các bộ sách thuộc mọi khu vực quản lý. Sự đóng góp không nhỏ bởi những hội chủ hưng công có tước vị nơi chốn triều trung. Sự lỏng lẻo về vương quyền bên cạnh sự biến chuyển dữ dội của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khiến nhu cầu về sách vở, và các tri thức khoa học trở nên thiết yếu khiến cho hàng loạt những hiệu, đường, trai, lâu ra đời, báo hiệu một thời kỳ nở rộ của nghề in kéo theo sự lụi tàn “dối già” của nền Nho học nước nhà. Những nhà in tương đối có tiếng như Quán Văn đường, Liễu Văn đường, Áng Hiên hiệu (Hà Nội),… Hải Học đường, Hướng Thiện đường (Hải Hưng), Ninh Phúc đường (Hà Nam Ninh), nhà in Đắc Lập (Huế),… đã đáp ứng đầy đủ những sách theo đơn đặt hàng. Bên cạnh những tác phẩm in ra có thể gọi là thiện bản, chân bản, không ít những tác phẩm cạnh tranh thiếu sự khảo đính dẫn đến tình trạng chữ tác đánh chữ tộ, ngộ thành quá.
Kiểu thức sách ở ta chủ yếu có hai loại: Loại kinh xếp là loại sách đóng gáy. Sự triệt để trong cách trình bày một trang sách đã được người Trung Quốc chuẩn hóa từ biên lan (viền trang), thư nhĩ (tai sách), bản tâm (lòng sách), ngư vĩ (đuôi cá),… ý thức bố cục các loại sách có đồ hình minh họa theo dạng thượng đồ hạ văn, nhất thư nhất họa, trừu đồ hay là dạng thượng phương đồ mục lưỡng bàng liên cú.
Những công đoạn khắc in sách được phân việc một cách cụ thể, từ người viết chữ đến thợ khắc ván, đôi khi cần có cả thợ vẽ, cuối cùng mới đến người in đóng. Thợ khắc ván Hồng Liễu trước thời Nguyễn không ít những người có khả năng kiêm tất các công vịêc từ viết vẽ đến khắc in. Xét cho cùng thì dù là sách Nho học hay tôn giáo, sách thuộc phạm vi quản lý nào đi chăng nữa thì cũng do đôi bàn tay của người thợ khắc mà ra, bởi lẽ họ không thuộc quyền quản lý của ai cả. Ai trưng dụng, ai thuê mướn và ai trả tiền thích đáng thì làm.
Nếu như ở cuối thời Lê, triều đình ra sắc lệnh cấm dân chúng dùng gỗ làm ván khắc kinh kệ của Phật, Lão hoặc thơ văn trái với quan điểm chính thống của triều đình thì sang thời Nguyễn, vào năm 1820, việc in ấn lại được tập trung ở kinh đô Huế, ai muốn gì thì phải gửi đơn từ cùng giấy mực lên cho Sử quán xem xét. Qua đây chứng tỏ ý thức tàng bản đồng nghĩa với việc giữ bản quyền và quản lý việc in khắc tràn lan. Hình thái này vốn dĩ xuất hiện từ khá lâu trong các tự viện và đạo quán.
Người xưa có câu “Khán đồ thức tự” (xem tranh biết được chữ), qua đây đủ biết công năng giáo dục của đồ hình minh họa sách lớn như thế nào! Hay nói như cách nói của Trịnh Chấn Đạch: “Một bức tranh đẹp, cũng giống như một áng văn trác tuyệt, khiến cho người xem như đang đứng ở trong cảnh”. Từ mối tương thông, tương hỗ giữa tranh và chữ, những người thợ khắc như phường Kiến An- Phúc Kiến- Trung Quốc đã độc sáng ra cách trình bày theo lối thượng đồ hạ văn và nhất thư nhất họa có ảnh hưởng lớn đến bố cục một tay sách ở Việt Nam sau này. Vào nửa cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII với việc Thái tể Tuyên quận công là Trịnh Quán cho khắc (?) bộ Phật thuyết Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh theo lối bố cục thượng đồ hạ văn, có thể tạm coi đây là những cuốn sách sơ khai cho lối bố cục này còn lưu giữ đến ngày nay (xem đồ hình). Năm Minh Mệnh thứ hai (1821) Tỷ khiêu Tính Tình ở chùa Thiên Hòa (Huế) cho khắc in bộ Diệm khẩu Du già tập yếu thí thực khoa nghi và bộ Phật thuyết cứu bạt Diệm ngạ quỷ Đà la ni kinh, là hai trong những bộ sách Phật giáo tiêu biểu đại diện cho lối trình bày trên vào thời Nguyễn. Cũng vào thời vua Minh Mệnh thứ 13 (1832) Sa di Phổ Hòa chùa Bảo Quang cho khắc in bộ Ngự chế Như Lai ứng hiện đồ theo lối nhất thư nhất họa có tính liên hoàn hoành tráng tinh xảo về cách trình bày, minh họa, kỹ thuật khắc chữ. Cùng dạng với lối trình bày này cũng phải kể đến những bộ kinh có quy mô không kém như bộ Quan Âm xuất tướng đồ, Phổ môn xuất tướng đồ, Đạo gia có các sách Văn đế toàn thư, Âm chất văn chú,…
Nếu xét về nội dung biểu đạt thì phần lớn tranh nằm trong sách Phật giáo. Việc phân loại tranh cho thấy sự phong phú hết cỡ về thể loại, cấu đồ, phong cách. Tóm lại, ta có mấy loại tranh sau:
Đồ họa sách Phật giáo:
Tranh tượng Phật, Bồ Tát, La Hán,…
Cao Tăng
Tranh truyện nhà Phật
Tranh Kinh biến
Tranh cố sự
Tranh bản sinh
Tranh phong cảnh chùa chiền
Tranh Man-đồ-la
Tranh Thủy lục
Tạp loại
Đồ họa sách Đạo giáo:
Tranh tiểu truyện
Tranh nhân vật
Tranh Bùa
Đồ họa sách Nho giáo:
Tranh tiểu truyện
Nhân vật
Tạp loại
Ngoài ra, số đồ minh họa cho các sách truyện, thơ Nôm, văn học, cùng các sách y học, địa lý, toán số cũng không phải là ít.

In ấn thời Nguyễn
Vân Mã. Bộ ván in Thập vật chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự, Thuận Thành, Bắc Ninh) TK18. Bản in do cố họa sỹ Nguyễn Trọng Hợp in lại năm 1974

Việc lợi dụng kỹ thuật ấn loát bằng ván khắc đang thịnh hành trong dân gian làm công cụ truyền giáo hoặc phổ cập kiến thức là công việc không của riêng chùa viện và tín đồ Phật giáo, nhưng để đưa ra định hình mảng tranh đồ họa sách của một thời đại thì cơ bản vẫn là dòng tranh đồ họa trong sách Phật giáo.
Phần lớn các sách được in khắc ở Việt Nam khắc lại theo sách của người Trung Quốc. Bởi lẽ sách do người Việt làm ra đại bộ phận là sách chép tay, hình vẽ tay cũng không có nhiều sách được cho khắc ván. Cho nên khi ta xem mảng đồ họa phần lớn chịu ảnh hưởng và rập khuôn theo hình mẫu của người Trung Quốc, đây là một điểm yếu không khắc phục được. Đồ họa thời Nguyễn- hay nói cách khác- đồ họa của người Việt thời Nguyễn chỉ cho ta ý niệm tự hào khi có sự bổ sung của các dòng tranh khắc dân gian, dòng tranh khắc Đạo giáo miền núi, và dòng tranh Phật giáo nằm ngoài khuôn khổ của trang sách.
Ở bài này, người viết chưa có sự đối chứng giám định nguồn tư liệu sách từ hai phía, giữa sách gốc của người Tung Quốc và sách do người Việt phục chế lại, cho nên những đánh giá tên chỉ là giả định, người viết không dám phẩm bình về mặt nghệ thuật mảng đồ hình minh họa trong các sách in ra ở thời Nguyễn và trước Nguyễn (ngoại trừ một số rất nhỏ do người Việt làm ra).
Khắc ván in là một nghề khéo được gợi mở tương truyền từ ông tổ nghề Lương Nhữ Hộc. Kỹ nghệ khắc ván in của các phường hội Hồng- Liễu không thua kém so với những tay Tử nhân Trung Quốc, nhưng thực chất của vấn đề không chỉ dừng ở chữ nghĩa, ở kiến thức học vấn mà còn ở trình độ thẩm mỹ. Đại đa phần thợ khắc ván in chỉ biết khắc ván, ít có khả năng kiêm nhiệm các công đoạn chế bản khác như viết chữ, vẽ tranh.
Ở Việt Nam, lẩn khuất đâu đó sau lũy tre làng một vài người khéo vẽ, cho nên mức độ chỉ là những Họa công dân gian mà thôi. Đây cũng là một điểm yếu nữa khiến đồ họa sách Việt Nam bị áp chế, đồng hóa ngay cả trong lúc suy nghĩ, cả trên phương diện Văn hóa, dẫn đến sự cáo chung tất yếu của nền Nho học nước nhà vào khoa thi Hội năm Kỷ Mùi (1919), nhường chỗ cho một thời kỳ mới, thời kỳ in hoạt tự chữ Quốc ngữ dựa vào kỹ thuật tân tiến của phương Tây.
Nghệ thuật ấn loát và khắc mộc bản là một trong những loại hình văn hóa nghệ thuật đặc thù không riêng của Việt Nam. Những Đồ và Thư (hoặc Đồ tịch) có giá trị về văn vật còn được lưu giữ tương đối nhiều trong các tự viện, đình quán. Đây là mảng di sản văn hóa của người Việt cần được bảo quản đồng hành với việc duy trì nghề khắc bản in và nghề giấy cổ truyền. Vì nhiều lý do khiến nó ít được mọi người nghiên cứu và đề cập đến, nhưng bằng vào những gì hiện còn cũng đủ minh chứng: Bản thân Đồ họa sách (và đồ họa ngoài sách) là một dòng tranh lớn- dòng tranh khắc gỗ đen trắng, không thua kém bất kỳ một dòng tranh nào có ở Việt Nam thời phong kiến.

L.Q.V.

Các bài viết khác trong Thông tin Mỹ thuật số 17-18