Mỹ Thuật Ứng Dụng Và Tính Dân Tộc Trong Thời Đại Kinh Tế Thị Trường
|
Nguyễn Thị Hoàng Anh. Đèn treo tường. Gốm.
Giải nhì cuộc thi thiết kế Quà tặng Du lịch 2004 |
Nghệ thuật không có địa chỉ là nghệ thuật mất gốc. Cái được gọi là “địa chỉ nghệ thuật, địa chỉ của tác phẩm” chính là cá tính, cái riêng, cái độc đáo mà bản thân người nghệ sĩ tạo ra trong tác phẩm của chính mình làm cho nó không bị nhòa lẫn vào trong các tác phẩm của người khác và qua đó bộc lộ cái hồn cao nhất là tính dân tộc. Tính dân tộc hoàn toàn không phải hình thức, mà nó là trừu tượng, là cái có thể “cảm thấy” chứ không phải nhìn thấy như những yếu tố vật lý. Nó tồn tại trong “kẽ hở” của những yếu tố hữu hình. Giờ đây, chúng ta đang lo lắng vì sợ mất nó trong nền kinh tế thị trường.
Trước đây hơn mười lăm năm, giới mỹ thuật cả nước đã có nhiều cuộc hội thảo để bàn về tính dân tộc hiện đại và hồi ấy đã có định nghĩa khá thuyết phục. Đại ý của nó như sau: “… Tính dân tộc có thể được coi là mùi hương của chất mật ong mà “con ong – nghệ sĩ” đã lặn lội, miệt mài để hút nhụy của muôn loài hoa, tích lũy để truyền vào trong tác phẩm của chính mình thứ tinh hoa dường như chất mật ong và mùi hương tuyệt vời ấy…” Chính tính dân tộc là tinh hoa tuyệt vời mà mỗi nghệ sĩ đều suy tư, miệt mài tìm kiếm trong kho tàng văn hóa dân tộc, vốn sống và mong muốn thể hiện được nó bằng ngôn ngữ thị giác trên tác phẩm của mình.
Tuy nhiên, cho dù thời đại nào, nếu một nghệ sĩ là người Việt Nam, đã và đang thật sự sống như là người Việt Nam, biết yêu thương, cảm xúc, rung động, suy nghĩ cái suy nghĩ; giận cái giận; thương cái thương của người Việt Nam và anh ta luôn trăn trở tư duy về nó thì ắt hẳn trong tác phẩm có khi anh ta không vẽ, tạo những hình thức đơn thuần về những điều nói trên.
|
Nguyễn Thị Việt Hà. Sức sống. Gốm.
Giải nhất cuộc thi thiết kế Quà tặng Du lịch 2004 |
Ngày nay, chúng ta đang sống ở ngưỡng cửa thế kỷ 21, trong thời đại bùng nổ thông tin, thời kỳ hội nhập, trong xu thế toàn cầu hóa và chúng ta cũng đang có chung nỗi băn khoăn về hiểm họa bị mất gốc, lai căng trong nhiều lĩnh vực mà trong đó có đạo đức, văn hóa và nghệ thuật…
Hiện nay chúng ta chẳng những lo rằng liệu tất cả mọi thứ rồi sẽ bị “thương mại hóa” mà còn phải lo là làm sao để kinh doanh thương mại cho có hiệu quả. Thoạt nhìn thì “thương mại hóa” có vẻ là phạm trù xấu; nhưng thật ra “thương mại hóa” không phải là điều xấu mà nó là sự định giá chính xác các giá trị xã hội bằng mọi giải pháp khoa học và vật chất hóa nó bằng ngôn ngữ tiền tệ trong thời đại kinh tế thị trường để giúp cho cộng đồng thế giới đối với những cái có thể hoán đổi được. Nó chỉ xấu nếu con người để nhân tâm, điều thiện bị đồng tiền che khuất, bị đồng tiền chế ngự và làm hại cho xã hội, văn hóa, đạo đức, danh dự và quyền lợi của tổ quốc, của dân tộc. Giờ đây thương mại
Nguyễn Thị Việt Hà. Sức sống. Gốm. Giải nhất cuộc thi thiết kế Quà tặng Du lịch 2004
không những đã trở thành một lĩnh vực khoa học của nhân loại mà nó còn là một nghệ thuật tổng hợp độc đáo, là môn học thời đại của loài người.
Trong thực tế, chúng ta có nền văn hóa hay nhưng chúng ta sẽ không thể nào phát huy nó trong tình trạng kinh tế vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu vì không biết vận dụng khoa học và thương mại. Đó là yêu cầu phải tồn tại và phát triển của các dân tộc đang vận hành theo xu hướng kinh tế thị trường.
Trong khi đó, ngày nay các nghệ sĩ của lĩnh vực tạo hình và mỹ thuật ứng dụng, đặc biệt là nghệ sĩ của lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng, là những người có khả năng làm được điều này và trong chiều hướng đó họ cũng có những suy tư, trách nhiệm là bằng mọi cách phải vừa phục vụ có hiệu quả cho việc phát triển nền thương mại nước nhà mà vừa giữ gìn được tinh hoa, tinh thần văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ nghệ thuật ứng dụng.
Chúng ta ai cũng biêt rằng trong lãnh vực nghệ thuật thị giác, lãnh vực mỹ thuật (Fine Arts) bao gồm hai lãnh vực lớn là: Nghệ thuật tạo hình (Plastic Art) và Mỹ thuật ứng dụng (Applied Art), mà trong lãnh vực Mỹ thuật ứng dụng lại bao gồm ba lãnh vực chuyên sâu: Nghệ thuật Trang trí (Decorative Art), Nghệ thuật Thủ công (Craft Art) và Nghệ thuật Thiết kế (Design Art).
Trong hai lĩnh vực nói trên, mỗi lãnh vực mà trong đặc điểm riêng của mình và trong lao động sáng tác đã gợi nên những đức tính, khả năng tâm lý nghề nghiệp, tư duy sáng tạo khác nhau. Chính từ khác biệt này dẫn đến mức độ, điều kiện, bộc lộ cái riêng, cá tính hay tính dân tộc trong tác phẩm cũng khác nhau.
Phải thực sự mà nói rằng, nghệ thuật tạo hình và Thủ công Mỹ nghệ là hai mảnh đất dễ làm bật dậy cái riêng, cá tính của nghệ sĩ. Từ đó có thể hàm chứa được tính dân tộc rõ nét hơn trong nghệ thuật trang trí và nghệ thuật thiết kế.
Khi sáng tác loại hình này, ngoài băn khoăn về nội dung tư tưởng, khả năng hình tượng hóa thì người nghệ sĩ có được sự tự do gần như tuyệt đối. Anh ta không phải lo lắng là tác phẩm của mình được ai mua, ai sử dụng và nó được treo, đặt nơi đâu môi trường nơi đó ra sao?... Người sáng tác chỉ quan tâm bộc lộ thật trọn vẹn tấm lòng, tài năng, sự rung cảm chân thành, nét độc đáo của mình trong tác phẩm và làm cho nó trở thành độc bản, có khả năng đánh động đến tình cảm, trái tim, lương tri của người thưởng ngoạn.
Chính điều này đã làm cho tâm lý sáng tạo của nghệ sĩ tạo hình được thanh thản hơn. Họ có thể bay bổng trong sáng tạo, từ đó dễ thể hiện cái riêng, cá tính, cái hồn riêng của dân tộc mình.
Và khi người nghệ sĩ đem hết tâm huyết, tấm lòng để sáng tác và thực sự thấy hạnh phúc trong sáng tạo thì chắc chắn trong tác phẩm sẽ phảng phất hình dáng của anh ta, qua đó tạo điều kiện bộc lộ cái hồn dân tộc.
Trong lĩnh vực mỹ thuật thì Thủ công Mỹ nghệ vốn là hình thái nghệ thuật thị giác luôn luôn gắn liền với nghệ thuật truyền thống, nghệ thuật thủ công mỹ nghệ (Handicraft) của một quốc gia, vùng, khu vực, dân tộc, sắc tộc, chủng tộc, tôn giáo cụ thể của từng địa phương.
Người nghệ sĩ của nghệ thuật thủ công mỹ nghệ vốn xuất thân là nghệ nhân hay thợ thủ công (Craftman), chuyên sử dụng ngôn ngữ, chất liệu cùng với thị hiếu, văn hóa bản địa của dân tộc mình, đồng thời sử dụng những tài năng, vốn sống, kinh nghiệm cha truyền con nối để sáng tác làm đẹp cho xã hội, qua đó làm sống dậy cái hồn riêng của cha ông mình. Chính điều này đã làm cho nghệ thuật thủ công vừa mang hình thức độc đáo riêng của từng địa phương, từng dân tộc, chủng tộc, sắc tộc mà trong đó ẩn tàng tính dân tộc sâu sắc nhất.
Sẽ là rất thuận tiện để phát huy, cái hồn truyền thống độc đáo này trong những tác phẩm nghệ thuật khi mà bản thân người, nghệ nhân, nghệ sĩ bản địa thích dùng ngôn ngữ, chất liệu truyền thống để chuyển tải những đề tài, ý tưởng mới mà anh ta thích cùng với sự sử dụng các kỹ thuật thể hiện hiện đại.
Do vậy việc giữ gìn, bảo vệ, phát huy những bản sắc văn hóa dân tộc phong phú độc đáo thì trước tiên phải làm sống dậy các loại hình này, đồng thời tìm cách nâng cao thêm ý thức thẩm mỹ cho nghệ nhân trong các loại hình nghệ thuật truyền thống của tất cả dân tộc, sắc tộc.
Xét về ngữ nghĩa thì trang trí chính là làm đẹp cho một đối tượng, một môi trường không gian cụ thể nào đó bằng cách phối trí, các yếu tố hình thức như hình thể, mảng khối, đường nét, màu sắc, chất liệu… Cái Đẹp trong nghệ thuật trang trí chính là hiệu quả của sự thích nghi thật cụ thể giữa bản thân những ngôn ngữ thị giác bên trong tác phẩm và đồng thời phải thích nghi với hình thức xung quanh, bên ngoài tác phẩm chứ không phải thích nghi chung chung.
Chính vì thế mà trước khi sáng tác các tác phẩm trang trí, thì người nghệ sĩ bắt buộc phải đặt ra trong đầu mình một loạt các câu hỏi: Tác phẩm này sẽ sử dụng ở nơi đâu, môi trường nào, đặc điểm của không gian đó ra sao, người sử dụng là ai từ phái tính, lứa tuổi, thành phần xã hội, tôn giáo, chủng tộc… Nghĩa là anh ta phải nắm bắt cho được một số tiền đề mà không có nó thì không thể sáng tạo nên những tác phẩm đẹp, vừa phối hợp, thích nghi thật tốt với môi trường không gian, con người sử dụng cụ thể…
Như vậy xét về mặt tâm lý sáng tác, nghệ sĩ trang trí không có được sự tự do gần như tuyệt đối của nghệ sĩ tạo hình. Chính vì phải tôn trọng và phối hợp với “những yếu tố trước đó” cho nên nghệ sĩ trang trí chỉ có quyền bộc lộ cái riêng, cá tính của mình trên cơ sở tuân thủ những tiền đề được cho sẵn.
Do đó anh ta không có quyền áp đặt cái chủ quan của mình trên những tiền đề ấy.
Trong khi mục tiêu của Nghệ thuật trang trí chỉ quan tâm đến việc làm đẹp cho thị giác, làm thỏa mãn Con mắt và tinh thần thì nghệ thuật thiết kế lại hàm chứa bên trong nó những yêu cầu vô cùng nghiêm ngặt chứ không đơn thuần chỉ là làm cho đẹp.
Bởi lẽ, khi nói đến thiết kế thì chúng ta bắt buộc phải đặt câu hỏi: Thiết kế công năng (Functionl Design) hay thiết kế trang trí, thiết kế làm đẹp (Decorative Design)? Thông thường thì khi thiết kế tất cả các sản phẩm xã hội, hai lãnh vực này luôn là những yêu cầu đan xen vào nhau, không tách rời. Rất hiếm khi chỉ quan tâm đến thiết kế trang trí mà không cần công năng. Mà để thể hiện được công năng thì nhà thiết kế phải hiểu rõ, chính xác những tiêu chuẩn quy phạm thông số kỹ thuật dành cho từng sản phẩm. Đó là chưa kể đến một sản phẩm có nhiều công năng mà còn phải đẹp.
Chúng ta có thể hình dung nhà thiết kế như là một đầu bếp giỏi phải nấu được nhiều món ăn chphải nấu được nhiều món ăn cho nhiều đối tượng, mà phải đảm bảo các món anh ta nấu thích hợp với “khẩu vị” người ăn là khách hàng. Anh ta có thể bộc lộ đôi chút về phong cách riêng của mình nhưng không được áp đặt khẩu vị của chính mình hay dân tộc mình cho khách hàng.
|
|
JAVIER GOMEZ. Khí lực. Kính dát mỏng |
ANDREW KAY. Dàn hải cẩu. Đúc đồng |
Khách hàng là thượng đế, thượng đế chê không mua, không sử dụng sản phẩm thiết kế thì nhà sản xuất sạt nghiệp. Do đó người ta thường nói rằng: “Thiết kế giỏi thì kinh doanh phát đạt” (Good design, good businesse).
Cá tính, phong cách riêng của nhà thiết kế sẽ được bộc lộ dễ dàng trong trường hợp anh ta thiết kế đối tượng cảm thụ hay khách đặt hàng là chính cho đồng bào, dân tộc của anh ta, những người quan tâm đến việc thể hiện bản sắc dân tộc hay trường hợp khi thiết kế anh ta không bị áp đặt những yếu tố có trước.
Tóm lại, trong tâm trạng sáng tác của nhà thiết kế đôi lúc xuất hiện hai tính dân tộc: Dân tộc thứ nhất là của chính bản thân anh ta và dân tộc thứ hai là của khách hàng. Khi mà cần làm bộc lên tính dân tộc của khách hàng mà không được áp đặt cái riêng của dân tộc mình cho họ.
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, của thượng đế là cao nhất chứ không phải tính dân tộc của bản thân nhà thiết kế. Phương châm của các doanh nghiệp là “Bán những cái mà khách hàng đang cần chứ không phải bán những cái mình có” và những nhà thiết kế là người giúp cho các doanh nghiệp tạo ra cái mà khách hàng cần mang chất lượng toàn diện.
Ngày nay, trước những sản phẩm được sản xuất hàng loạt của nền sản xuất công nghiệp. Người ta có hai huynh hướng chính trong sản xuất thương mại và chọn lựa sản phẩm để tiêu thụ:
Thứ nhất: tạo ra hay chọn những sản phẩm xã hội đa công năng, đẹp, hiệu quả, giá thành hợp lý, an toàn, trong đó có cả không làm ô nhiễm môi trường.
Thứ hai: là sản xuất hay lựa chọn mhững loại sản phẩm của nghệ thuật thủ công, độc đáo mang sắc thái dân tộc rõ nét. Riêng nghệ thuật tạo hình là những tác phẩm cao cấp loại này.
Giờ đây nghệ thuật thiết kế là lĩnh vực chúng ta còn quá non trẻ, việc đi tìm cái hồn trong loại hình này để gìn giữ nó, phát huy nó là điều cần thiết nhưng còn gian nan. Tuy nhiên, tôi tin rằng không lâu nữa, khi mà chúng ta có đủ các trung tâm đào tạo về tất cả các lĩnh vực của nghệ thuật thiết kế và nó phát triển mạnh mẽ, thì khi ấy có lẽ chúng ta sẽ không ngại việc bị thương mại hóa nghệ thuật nữa mà chúng ta phấn khởi nói rằng: chúng ta đã và đang thực hiện nghệ thuật hóa thương mại theo ý nghĩa khoa học toàn diện của nghệ thuật thiết kế…
Bởi lẽ, khi ấy chúng ta sẽ có những trung tâm đào tạo nên hai dạng nghệ sĩ như đất nước Hà Lan hiện nay. Đó là Nghệ sĩ hàn lâm (academy artist) và Nghệ sĩ thương mại (commercial artist).
Lúc đó thương mại cũng là một nghệ thuật và những người làm thương mại trong tất cả mọi lĩnh vực đều được đào tạo thành những chuyên gia, những nghệ sĩ thiết kế. Các nhà lãnh đạo của chúng ta cũng sẽ không phải lo âu về mối nguy: thương mại hóa nghệ thuật mà chúng sẽ cùng nhau thực hiện nhiệm vụ là nghệ thuật hóa các sản phẩm xã hội, nghệ thuật hóa thương mại. Lúc đó, giống như người Nhật, trong các sản phẩm thiết kế của chúng ta sẽ mặc nhiên ẩn tàng cái hồn Việt như là loại gen di truyền.
Uyên Huy
Các bài viết khác trong Thông tin Mỹ thuật số 07-08